Chứng chỉ và văn bằng tốt nghiệp ở miền Nam trước 1975

Chứng chỉ và văn bằng tốt nghiệp ở miền Nam trước 1975

Y Nguyên Mai Trần

Bài viết sưu khảo này dựa vào những nhận thức và kinh nghiệm của người viết sinh ra trong thập kỷ 1940s thừa hưởng môt nền giáo dục khai phóng ở miền Nam. Từ ngôi trường đơn sơ trong xóm nhỏ rồi bước sang ngưởng cửa tiểu học, trung học, đại học trong suốt một quá trình dài 15 năm, trong mổi giai đọan đánh dấu bằng sự xét nghiệm với những mảnh bằng hay chứng chỉ tôt nghiệp mà các cơ quan giáo dục cấp phát .Với những chứng chỉ mảnh bằng ấy những người tốt nghiệp đã tham gia vào đời sống kinh tế, cộng đồng xã hội giáo dục một cách hiệu quả và thành công.

Bài viết sẽ không đề cập chuyên sâu về lịch sử, khía cạnh chính trị, triết lý và hệ thống tổ chức của nền giáo dục miền Nam (Thời Pháp thuộc cũng như thời Việt Nam Cộng Hòa) vì những khía cạnh này đả được đề cập đến từ khá nhiều tài liệu trên mạng cũng như sách vở.
Ngày 21/12/1917 Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut ký nghị định ban hành tổng quy chế nền học chính toàn cõi Đông Dương. Văn bản được xem như bộ luật giáo dục với mục tiêu thống nhất nền giáo dục bản xứ, tiến tới xóa bỏ nền giáo dục cũ.

Hệ thống Giáo Dục Pháp Cho Người Bản Xứ (Enseignement Franco-Indigène), thường được gọi là Giáo Dục Pháp-Việt được dựa vào hệ thống giáo dục của chính quốc, đã được người Pháp ở Việt Nam điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh và thực tế tại Việt Nam. Tuy tiếng Pháp vẫn dùng là chính ngữ, tiếng Việt là phụ ngữ, mục tiêu tối hậu là loại bỏ Nho học và thay thế dần bằng một hệ thống giáo dục phục vụ cho người bản xứ và guồng máy cai trị.

Hệ thống giáo dục mới được hình thành sau khi Pháp chiếm Nam kỳ. Với Hòa ước Giáp Tuất 1874 Nam kỳ trở thành thuộc địa Cochinchine và Hòa ước 1883-84 Patenôtres đặt Bắc kỳ -Tonkin và Trung Kỳ-AnNam dưới quyền bảo hộ. Mặc dù triều đình Nguyễn được cai trị ở Huế, nhưng chịu sự kiểm soát chặt chẻ của Toàn Quyền Đông Dương. Tưởng cũng xin nhắc lại Liên Bang Đông Dương-L’Indochine gồm Lào, Cao Miên và ba miền của Việt Nam, cơ sở đầu não đặt tại Hà Nội, dưới quyền của Toàn Quyền Đông Dương.
Năm 1864 là kỳ thi Hương cuối cùng ở Nam kỳ tổ chức ở ba tỉnh miền Tây trước khi bị Pháp chiếm. Từ 1878 chữ Hán trong giấy tờ công văn của các cơ quan hành chánh được thay thế bằng chữ Pháp và chữ Quốc ngữ. Ở Bắc kỳ và Trung kỳ, dưới quy chế bảo hộ, sự thay đổi về giáo dục chậm hơn. Kỳ thi Hương cuối cùng ở Bắc là năm Ất Mão 1915, và ở Huế năm Mậu Ngọ 1918. Tuy vậy mãi đến năm 1932 bộ máy quan lại của triều đình mới bỏ việc dùng chữ Hán và thay thế bằng chữ Pháp hay chữ quốc ngữ.

Người viết xin ghi nhận sự đóng góp của bạn bè đồng môn khắp nơi trên thế giới. Hy vọng những tư liệu này được xem là tài liệu tham khảo quý báo cho các thế hệ sau cũng như môt chút tâm tình cuả một thời vàng son trẻ tuổi dùi mài kinh sử trong những mái trường trước 1975.

Phần A. Nền Giáo Dục ở miền Nam trước năm 1954- thời Pháp thuộc.

Trước năm 1954, tuy có nhiều biến chuyển theo vận nước nổi trôi, nhưng chương trình Pháp- Việt Franco-Indigènes căn bản là hệ thống giáo dục tại Việt Nam trong suốt thời kỳ Nam Kỳ thuộc địa, Trung Kỳ và Bắc Kỳ bảo hộ . Song song với chương trình này còn có chương trình chinh quốc Pháp áp dụng cho một số trường được mở ra để phục vụ người Pháp và những người có quốc tịch Pháp trong thời gian đầu. Điển hình như trường Chasseloup Laubat Sài gòn(1874),trường trung học Albert Sarraut ở Băc Kỳ (1908), Yersin ở Đà Lạt (1935). Cả 3 trường này bắt đầu cũng được hình thành từ bậc tiểu học trước rồi sau mới đến bậc Tú Tài.

Làm nòng cốt cho hệ thống giáo dục Pháp-Việt-Franco-Indigène phổ thông cho người Việt, người Pháp đã cho xây dựng một số trường như trường trung học Le Myre de Vilers ở Mỹ Tho (1879), Collège de Cantho (1917) trường Quốc Học Huế (1896), trường trung học Bảo Hộ (Collège du Protectorat) tức trường Bưởi Hà Nội (1908) ). Ba trường này khi mới mở chỉ có bậc tiểu học đến vài chục năm sau mới có 2 trường Quốc Học Huế và trường Bưởi giảng dạy bậc Tú Tài.

Thống Đốc  Nam Kỳ Le Myre de Vilers ̣(xem hình ̣95), người chú trọng mở mang giáo dục Pháp-Việt đã cho mở trường trung học đầu tiên và duy nhất cho cả Miền Nam vào cuối thế kỷ XIX lấy tên Collège de Mytho. Trường bắt đầu chỉ có hai năm học sau đó tăng lên bốn năm đầu thế kỷ XX được đổi tên là Collège Le Myre de Vilers.

Chương trình Pháp-Việt gồm có ba bậc học : Tiểu học, Trung học và Đại học. Ở bậc Tiểu học, lớp khởi đầu là lớp Năm hay lớp Đồng ấu (Cours Enfantin), kế đến là lớp Tư hay lớp Dự bị (Cours Préparatoire), lớp Ba hay lớp Sơ đẳng (Cours Elémentaire). Cả ba lớp này thuộc cấp Sơ học tiểu học, học xong, học sinh thi lấy bằng Sơ học Yếu lược (Certificat d’Etudes Primaire Elémentaire).
Sau cấp Sơ học là cấp Tiểu học gồm ba lớp: lớp Nhì năm thứ nhất (Cours Moyen de 1ère Année), lớp Nhì năm thứ hai (Cours Moyen de 2è Année), và lớp Nhất (Cours Supérieur). Xong lớp Nhất, học sinh thi lấy bằng Tiểu học (Certificat D’Etude Primaire Complémentaire Indochinois, viết tắt là C.E.P.C.I).
Sau bằng Tiểu học , học sinh phải học lên bốn năm nữa rồi thi bằng Cao Đẳng Tiểu học, tiếng Pháp là Diplôme d’Etudes Primaire Superieur Franco-Indigènes, còn gọi là Brevet primaires , người Việt gọi là bằng Thành Chung, bằng Diplôme.
Ai thi đậu mới được học lên bậc Trung học-còn gọi là bậc Tú Tài. Bậc này gồm ba năm, năm thứ nhất, năm thứ hai-Bac 1ere và năm thứ ba- Bac 2ème
Kể từ cuối thập niên 1920, chương trình thi bậc Tú Tài đã được Nha Học chính Đông Pháp quy định, gồm hai kỳ thi cách nhau một năm, kỳ thi lấy bằng Tú Tài I hay Tú Tài bán phần (Baccalauréat Première Partie) và kỳ thi Tú Tài II hay Tú Tài toàn phần (Baccalauréat Deuxième Partie, gọi tắt là Bac). Người dự thi Tú Tài toàn phần bắt buộc phải có bằng Tú tài bán phần
Tú Tài toàn phần –Pháp-Việt còn gọi là Certificat de Fin d’Etudes Secondaire Franco-indigènes

Tú Tài toàn phần Pháp chính thống còn có tên là Diplôme du Baccalaureat de l’enseignement du second degré.

Hình 1: Bằng cấp, chứng chỉ thời Pháp-trước 1954.

Với việc cải cách giáo dục, việc đưa chữ quốc ngữ vào tiểu học đã giúp trẻ nhanh chóng biết đọc, biết viết so với việc học chữ Hán khó nhớ. Chương trình học bao gồm cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Bên cạnh các trường phổ thông, Pháp còn lập ra trường dạy nghề để học sinh khi học xong tiểu học có thể chọn học nghề.

Thời kỳ 1945-1955, tình hình giáo dục rất phức tạp. Pháp vẫn chỉ đạo nền giáo dục tại Nam Kỳ, nhưng giữa Pháp và các nước liên hiệp Đông Dương cũng đã ký hiệp ước chuyển giao các cơ quan giáo dục và văn hóa từ năm 1949. Đa số các trường đại học, cao đẳng Pháp thành lập, đặt tại Hà Nội cho toàn các xứ Đông Dương, được dời vào miền Nam sau hiệp định Genève 1954.

Đặc biệt tại Saigon, hai trường trung học theo chương trình Pháp-Việt đầu tiên được thành lập là trường Áo Tím-Gia Long và trường Petrus Trương Vĩnh Ký.

Trường L’école des Jeunes Filles Indigènes)  Áo Tím –Gia Long  xây dựng xong năm 1915 được Toàn Quyền Ðông Dương Ernest Nestor Roume  và Thống Ðốc Nam Kỳ Courbeil cắt băng khánh thành và khai giảng khóa đầu tiên. Trường dạy hai cấp. Sơ học và Tiểu học. Cuối năm Sơ học , học sinh phải thi lấy chứng chỉ Sơ học yếu lược ( Certficat d’Etudes Primaires Elementaires Franco-Indigènes), sau đó học thêm ba năm thi bằng Tiểu học yếu lược . CEPCI (tức Certificat d’Études Primaire Complémentaire Indochinoise). Năm đầu tiên chỉ có 42 nữ học sinh trong bộ đồng phục áo dài tím. Tên trường Áo Tím bắt đầu từ đó.

Ðến tháng 9 năm 1922, trường được nâng lên cấp Cao đẳng tiểu học (tương đương với bậc Trung Học Ðệ Nhứt Cấp sau này). Toàn Quyền Albert Sarraut khai giảng lớp đầu tiên của bậc Cao đẳng tiểu học và  đổi tên trường là Collège des Jeunes Filles Indigènes .

Thời Nhật trở lại Đông Dương, năm 1940 , trường đổi tên thành trường trung học Gia Long. Tên trường tồn tại mãi đến sau năm 1975 với tên mới Nguyển thị minh Khai.

 Hình  2: Trường Gia Long, Trường Petrus Ký.

Thống Đốc Nam Kỳ B.de La Brosse ký nghị định 18-12-1927 thành lập trường trung học Pháp Việt mang tên “Petrus Ký trung-học đường”.
Tiền thân của trường Petrus Ký có tên là Collège de Cochinchine (một phân hiệu tạm thời của Collège Chasseloup Laubat (hiện nay là Lê Quý Đôn), dành cho học sinh người Việt Nam
Ngày 11-8-1928, khi trường mới xây dựng xong ở vị thế ngày nay, trường khởi đầu chỉ dạy bậc Cao đẳng tiểu học, mang tên Lycée Pétrus Trương Vĩnh Ký-Petrus  Ký trung học đường- khai giảng năm học đầu tiên tháng 9, 1927-1928 với 4 lớp học với hơn 200 học sinh chuyển qua theo học chương trình Pháp và Pháp Việt từ trường Collège de Cochinchine (Ngoại trưởng và Chủ Tịch Thượng Viên VNCH Trần Văn Lắm là một trong những học sinh khóa đầu tiên 1927-1928. Ông mất tại Canberra Úc năm 2001). Vào năm 1953, trường Trung học Petrus Trương Vĩnh Ký là ngôi trường trung học công lập duy nhứt của Sài Gòn dành cho nam sinh, dạy về văn hóa của chương trình Trung học Việt Nam
Nếu đứng ngay trước cổng chánh trên đại lộ Cộng Hòa, hiện nay là đường Nguyễn Văn Cừ vẩn còn cổng xây dựng bằng gạch kiên cố với 2 cột cao độ 4m trên có khắc 2 câu chữ Hán “Khổng Mạnh Cương Thường Tu Khắc Cốt, Tây Âu Khoa Học Yếu Minh Tâm.” Phía trên có khắc tên “Trường Trung Học Petrus Ký.”. Sau 1975, trường có tên Lê hồng Phong.

Bằng cấp chương trình chính quốc Pháp

Chương trình giáo dục Pháp chính quốc được áp dụng cho các trường dạy học trò người Pháp và những người có quốc tịch Pháp.

Hình 3: Bằng Tiểu học yếu lược (Tiểu học) chương trình Pháp-Certificat d’études primaires élémentaires” (CEPE) –cấp cho cô học trò người Pháp Colette Parlet  ở Cái Bè, Nam Kỳ, bằng cấp chính quốc Pháp của Département du Var –Academie D’Aix.

Bằng cấp chương trình Pháp-Việt Franco-Indigènes

Thời này những người tốt nghiệp với bằng Tiểu Học được xem có học thức khá, nói tiếng Pháp khá thông thạo, thường làm ” thầy thông thầy ký” .Những người có bằng Cao Đẳng Tiểu học được xem có trình độ học thức cao, thường đãm nhiệm những vai trò quan trọng trong cơ sở Pháp Việt.

A1-Bậc Tiểu học-Cao đẳng Tiểu Học

Hình 4: Văn bằng Tiểu Học cấp ở Nam Kỳ thuộc địa Cochinchine 1933

https://musee-ecole-montceau-71.blogspot.com/2019/03/lecole-dans-lalgerie-francaise.html

Hình 5: Văn bằng Tiểu Học cấp ở Bắc Kỳ Bảo Hộ -Protectorat du Tonkin 1929

Hinh 6M Bang cap tieu hoc Bao Ho ha noi

Hình 6: Văn Bằng Tiểu Học cấp ở Bắc Kỳ Bảo Hộ -Protectorat du Tonkin 1934

Hinh 7M Bang Phap

Hình 7.Bằng Sơ Đẳng Tiểu Học hay Tiểu Học Yếu Lược 1915-Certificat d’Etudes Primaires –Franco Indigènes cấp thời Đông Pháp –Liên Bang Đông Dương-Bắc Kỳ Bảo Hộ (Protectorat du Tonkin). Đây không phải là bằng Sơ Học Yếu Lược-Certficat d’Etudes Primaires Elementaires Franco-indigènes

Hinh 8m Bang tieu hoc cua tran van tuyen

Hình 8: Văn bằng Tiểu học yếu lược bản xứ Certificat d’Etudes Primaires –Franco Indigènes. thời Đông Pháp –cấp bởi Thủ Hiến Trung Kỳ Bảo Hộ (Protectorat de L’Annam)

Hinh 9M CEPCI tieu hoc Phap

Hình 9: Bằng cấp tiểu học bổ túc cấp bởi bộ trưởng Giáo Dục của Chính Phủ Đại Nam dưới thời vua Bảo Đại năm 1939. Bằng này đòi hỏi người tốt nghiệp học thêm một năm sau khi có bằng Tiểu Học ̣để đi dạy học hoặc đãm nhiệm trọng trách cao hơn.

http://trantocvinhhien.com/photos_video/dicao/dicao-ongba/

Hinh 10M certificat d'etudes primaire complimentaire indochinoise

Hình 10: .Văn bằng Tiểu Học bổ túc cấp  ở Nam Kỳ thuộc địa Cochinchine 1940s

A2-Bậc Trung Học

Hình 11:. Bằng Diplôme-còn gọi là Brevet primaires- Người Việt gọi là bằng Thành Chung. Bằng này cấp cho học sinh người Pháp ở Pháp.

hinh 12M Diplome D.erudes complementaires F-ranco -indegenes-Thanh chung Diploe

Hình 12. Văn bằng Diplôme D’Etudes Complimentaires-Franco-Indigènes- tương đương bằng Brevet-Thành Chung -cấp cho học sinh theo hệ thống Giáo Dục Pháp Việt thời Liên Bang Đông Dương 1919.

hinh 13M Bang thanh chung 1923

Hình 13: Văn bằng Diplôme D’Etudes Complimentaires-Franco-Indigènes- tương đương bằng Brevet-Thành Chung -cấp cho học sinh theo hệ thống  giáo dục Pháp Việt thời Liên Bang Đông Dương 1923

hinh 14M Diplome d'etudes primaires superieur -Jan 1945

Hình 14: Diplôme D’etudes Primaires Superieures-Cao đẳng Tiểu Học, còn gọi là bằng Thành Chung.
Văn bằng cuối cùng này cấp bởi Toàn Quyền Đông Dương ngày 31/5/1945 sau khi Nhật chiếm Đông Dương ngày 9 Tháng Ba 1945

hinh 15M Diplome du baccalaureat academie de rennes

Hinh 15: Mẩu bằng Tú Tai II chương trinh Pháp cấp bởi Academie de Rennes cho học sinh tốt nghiệp các trường như Lê Quý Đôn, Marie Curie… Saì Gòn

A3-Bậc Đại học thời Pháp Thuộc

Hinh 16M

Hình 16: Bằng tốt nghiệp Đại học Khoa học Ứng dụng chuyên ngành Công Chánh do Chính phủ Đông Dương cấp năm 1926. Người được cấp bằng này đã theo học ở trường Cao Đẳng École des Sciences Appliquées Hà Nội

Hinh 17M Read the rest of this entry »